Sự hồi phục của Macedonia (359–358 TCN) Sự bành trướng của Macedonia dưới triều đại Philippos II

Cải cách quân đội

Bức tranh màu miêu tả một người lính mặc linothorax, nó đến từ Ngôi mộ phán xét tại MiezaImathia, Hy Lạp, và có niên đại là vào thế kỷ thứ 4/3 TCN

Ưu tiên hàng đầu của Philippos đó là tái thiết lại quân đội Macedonia, đồng thời khôi phục lại nhuệ khí của cả quân đội và người dân. Ông đã tổ chức một loạt các hội nghị lập pháp với sự tham gia của người dân Macedonia và "cổ vũ họ bằng những bài diễn văn hùng hồn về việc là đàn ông, ông đã nâng cao nhuệ khí của họ".[26] Ông đã huấn luyện lại binh sĩ của mình một cách kỹ càng với những chiến thuật và trang bị mới. Đặc biệt, ông là người đã áp dụng việc sử dụng đội hình phalanx cho những người lính bộ binh Macedonia và trang bị những cây giáo dài 6 m (sarissa) thay vì những ngọn giáo dài 2–3 m (doru) được lực lượng hoplite của người Hy Lạp sử dụng.[26]

Ngoại giao

Đồng thời với những cải cách về quân đội, Philippos cũng đã tích cực tiến hành các hoạt động ngoại giao. Ông đã mua chuộc Berisades, con trai của vua Cotys, để người Thraci dừng sự ủng hộ cho Pausanias và do đó đã ngăn chặn được một cuộc xâm lược của người Thraci.[23][25][26] Tương tự, ông đã mua chuộc người Paionia bằng những món quà để họ rút quân khỏi Macedonia.[23][26] Philippos có lẽ cũng đã ký kết một hiệp ước hòa với vị vua của người Dardani là Bardylis và có thể là bằng cách cắt một phần lãnh thổ rộng lớn của Macedonia để đổi lấy hòa bình. Mặc dù không có bằng chứng nào còn sót lại về một hiệp ước như vậy, nhưng quả thực người Illyri đã không tiếp tục đà thắng lợi của mình nhân lúc Macedonia đang suy yếu, điều này gợi ý rằng một số thỏa thuật dường như đã được thông qua.[25] Philippos cũng đã cưới con gái (hoặc cháu gái) của Bardylis, đây có thể là một phần của hòa ước.[25] Dù sao đi nữa, chính sách ngoại giao của Philippos đã giúp cho Macedonia có chút không gian và thời gian để hồi phục.

Trận Methone

Những người láng giềng của Macedonia vào thời cổ đại

Philippos nhận ra rằng người Athen ủng hộ Argeos với mục đích duy nhất là khôi phục lại Amphipolis, họ đã hy vọng rằng bằng việc đưa Argeos lên làm vua thì họ sẽ thực hiện được điều này.[23][25][26] Do đó, Philippos đã rút đội quân đồn trú người Macedonia khỏi Amphipolis và tuyên bố nó được tự trị để làm suy yếu dần dần sự ủng hộ của người Athen dành cho Argeos.[23][25]

Dẫu vậy, đội quân viễn chinh của người Athen gồm 3000 lính đánh thuê và dưới sự lãnh đạo của Mantias vẫn đổ bộ tại Methone nằm trên bờ biển Macedonia.[23] Mantias lúc này từ chối rời Methone, vì thế thay vào đó Argeos đã dẫn quân tiến tới cố đô của người Macedonia là thành phố Aegae, ông ta hi vọng rằng người dân sẽ tôn mình lên làm vua.[23][26] Tuy nhiên, cư dân của Aegae lại tỏ ra không hứng thú với việc này và vì thế Argeos đã phải dẫn quân quay trở về Methone. Dọc đường hành quân, ông ta đã bị Philippos tấn công và đánh bại, nhiều lính đánh thuê Athen đã bị giết và số còn lại bị bắt làm tù binh.[23][26] Theo Diodoros, chiến thắng này đã giúp khôi phục lại nhuệ khí cho quân đội Macedonia và giúp họ trở nên can đảm hơn cho những trận chiến sắp tới.[26]

Sau khi đánh bại được mối đe dọa trực tiếp cuối cùng đối với Macedonia, Philippos đã quay trở lại đường lối ngoại giao. Ông ngay lập tức đã phóng thích những tù nhân Athen và phái các sứ thần tới Athens. Với việc Philippos sẵn sàng từ bỏ các yêu sách đối với Amphipolis và kết hợp với việc ông đối xử với các tù binh người Athen đã thuyết phục được người Athen giảng hòa với ông.[23][27]

Paionia và Illyria

Bài chi tiết: Trận thung lũng Erigon

Năm tiếp theo (358 TCN), Philippos nhận được tin báo rằng vua Agis của người Paionia đã qua đời. Lợi dụng việc họ đang gặp phải tình trạng xáo trộn về chính trị và trong giai đoạn chuyển giao quyền lực, Philippos đã đem quân tiến đánh Paionia và đánh bại họ. Sau đó ông bắt các bộ lạc phải thề trung thành với Macedonia.[23][27]

Lúc này, Philippos đã có thể hướng sự chú ý đến người Illyri, họ lúc này vẫn đang chiếm đóng phần lớn Thượng Macedonia.[23][27] Elimea và Eordaea có lẽ là những lãnh địa duy nhất vẫn trung thành với vương quốc Macedonia trong cuộc xâm lược của người Illyri.[28] Mặt khác, Lynkestis lại được cai trị bởi một triều đại đối địch mà có quan hệ họ hàng với vị vua Macedonia (và có thể là về phía người mẹ của Philippos, Eurydice) và những khu vực khác thuộc Thượng Macedonia thì lại có các mối quan hệ với những thế lực ngoại quốc. Pelangonia có truyền thống là đồng minh của người Athen ở Thượng Macedonia[28] trong khi Lynkestis, Orestis và Tymphaea thì lại có các mối quan hệ với vương quốc của người Molossoi và Ipiros.[28][29]

Philippos đã tổ chức một hội đồng quân đội và tập hợp một đạo quân gồm 10,000 người cùng 600 kỵ binh rồi tiến quân tới Illyria.[27] Philippos còn cưới Phila của Elimeia để đảm bảo liên minh với một công quốc thuộc Thượng Macedonia mà nổi tiếng với lực lượng kỵ binh của họ.[30] Khi nghe được tin báo về sự chuẩn bị này, Bardylis đã phái sứ thần tới chỗ Philippos và đề nghị hòa bình dựa trên cơ sở hiện trạng đang có. Theo Diodoros, Philippos đã bác bỏ điều này và khăng khăng rằng người Illyri phải triệt thoái hoàn toàn khỏi Macedonia, vì vậy thay vào đó Bardylis đã tập hợp 10,000 người cùng 500 kỵ binh để chuẩn bị cho trận chiến.[27]

Theo Diodoros, khoảng 7,000 người Illyri đã ngã xuống trong trận chiến này.[27] Người Illyri đã phải triệt thoái khỏi Macedonia và cầu hòa. Sau chiến dịch này, Philippos đã thiết lập quyền lực của ông ở khu vực nội địa cho tới tận hồ Ohrid.[28][31][32] Ngoài việc đánh đuổi người Illyri, ông còn cho lưu đày Menelaus của Pelagonia tới Athens,[33] và do đó chỉ còn Philippos là vị vị chúa tể duy nhất ở khu vực Thượng Macedonia. Điều này cho phép ông tuyển mộ binh sĩ từ một khu vực có nguồn nhân lực dồi dào trong suốt khoảng thời gian còn lại của triều đại mình.[30][34][35] Một số vùng đất như Pelagonia đã bị sáp nhập hoàn toàn trong khi những vùng đất khác chẳng hạn như là vùng đất Elimea trung thành hoặc các thung lũng xa xôi khác được giữ quyền tự trị của mình như là các chư hầu. Philippos đã tái tổ chức lại chính quyền Macedonia thành các địa hạt hoặc ethne và thiết lập hệ thống chiến hữu để kiểm soát tầng lớp quý tộc Macedonia. Cũng theo sự sắp xếp này, con trai của các quý tộc Macedonia đã được đưa vào đội quân cận vệ của nhà vua thay vì của các lãnh chúa tự trị.[36] Nhiều vị tướng nổi tiếng của Philippos và Alexandros trong thời kỳ này xuất thân từ tầng lớp quý tộc ở Thượng Macedonia.[37]

Philippos cũng đã giành được sự ủng hộ từ người Ipiros hàng xóm của mình, họ cũng đang có chiến tranh với người Illyri.[a][38] Sang năm sau, Philippos đã cưới người cháu gái của vua Myrtale, vua của người Molossoi ở Ipiros, điều này đã khiến cho vùng đất biên giới giữa Macedonia và Ipiros, Orestis, nằm dưới phạm vi ảnh hưởng của Philippos như là một phần nằm trong của hồi môn của bà.[39]

Về phía tây bắc, các bộ lạc người Illyri như người Taulantii hoặc người Dardani đã bị đánh đuổi nhưng họ không bị chinh phục.[31] Về phía nam, con sông Strymon hoặc sông Nestus đã là biên giới của Macedonia[32] và phạm vi kiểm soát đối với Paionia thì lại yếu hơn. Các ghi chép lịch sử và tiền xu cho thấy rằng người Paionia có vua riêng của họ và giữ địa vị là chư hầu hoặc triều cống.[31]

Thessaly

Justinus và Diodoros đều nói rằng Philippos đã xâm lược Thessaly vào năm 358 TCN.[40][41] Trong giai đoạn trước năm 370 TCN, Thessaly đã có một thời gian ngắn là một thế lực trong thế giới Hy Lạp sau khi được thống nhất dưới quyền Jason của Pherae, ông ta đã được bổ nhiệm làm Tagos của Thessaly. Tuy nhiên, Jason đã bị ám sát vào năm 370 TCN và người con trai của ông là Alexandros đã trở thành Tagos. Alexanderos đã cai trị một cách khắc nghiệt và đo đó các thành bang khác thuộc liên minh Thessaly không ủng hộ ông ta nữa, điều này đã dẫn đến một cuộc xung đột lẻ tẻ mà lôi kéo cả Macedonia (dưới thời Alexandros II) và cuối cùng là cả Thebes dính líu vào. Cuộc xung đột này đã kết thúc vào năm 364 TCN khi người Thebes đánh bại Alexandros và thiết lập một hiệp ước hòa bình ở Thessaly. Tuy vậy, với sự suy yếu của Thebes sau trận Mantinea, cuộc xung đột ở Thessaly đã tiếp tục.[42] Alexandros đã bị những người anh em của vợ mình là LycophronTisiphonos ám sát vào năm 358 TCN, họ đã trở thành bạo chúa thay thế ông ta. Theo Diodoros, nhà Aleuadae, gia đình quý tộc chi phối nền chính trị ở thành phố Larissa nằm phía bắc Thessaly, đã chống lại hai bạo chúa này và họ đã cầu viện sự giúp đỡ của Philippos.[41]

Philippos II của Macedonia – một đồng tetradrachm bằng bạc được đúc dưới triều đại của ông

Theo Diodoros thì Philippos đã đánh bại hai bạo chúa này, còn Buckler thì lại cho rằng với sự xuất hiện của Philippos, có thể nhà Aleuadae đã đàm phán hiệp ước hòa bình với Pherae với vị thế của phe mạnh hơn.[43] Philippos dường như đã trở về từ cuộc viễn chinh cùng với những người vợ mới đến từ Larissa (Philinna) và Pherae (Nicesipolis, cháu gái của Jason), điều này gợi ý rằng đã có một thỏa thuận chắc chắn được thương lượng bởi vì Buckler nói "Philippos trở về từ Thessaly với một chân trong cả hai phe".[43]

Philippos dường như đã có mối quan tâm rất lớn dành cho Thessaly ngay từ đầu triều đại của ông ngay cả khi có vấn đề ở nơi khác.[43] Có thể có một vài lý do dành cho mối quan tâm này của ông. Đầu tiên và cấp bách nhất đó là Philippos có thể muốn nắm quyền kiểm soát vùng đất biên giới Perrhaebia (vốn có truyền thống là một phần của Thessaly) để nhằm củng cố biên giới phía nam của Macedonia.[23] Lý do thứ hai đó là do Larissa kiểm soát các tuyến đường bắc-nam chính nối Macedonia và Thessaly, mối quan hệ thân mật với nhà Aleuadae sẽ giúp bảo vệ Macedonia và cho phép Philip tiếp cận với phần còn lại của Hy Lạp.[43] Lý do thứ ba đó là Thessaly là vùng đất dồi dào tài nguyên và Philippos có thể đã thấy được tiềm năng khai thác lâu dài của nó:

Thessaly có nhiều đất đai, sản vật, thành phố và con người. Kỵ binh Thessaly tốt nhất Hy Lạp, và khu vực núi non bao quanh Thessaly cung cấp nhiều peltast. Thắng lợi ở Thessaly sẽ đem đến cho Philippos một đạo quân mới và bổ sung thêm cho ngân khố quốc gia.

— John Buckler[44]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Sự bành trướng của Macedonia dưới triều đại Philippos II http://old.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://old.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://old.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://old.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://old.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://old.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://old.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://old.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://old.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per...